Sự nghiệp Lưu Cơ (nhà Đinh)

Dẹp loạn 12 sứ quân

Lưu Cơ là đồng hương gần với Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú. Lớn lên theo học Tri Hối tiên sinh ở Gia Viễn. Sau khi cha mẹ mất, ngoài 20 tuổi ông theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Các Đinh Điền, Trịnh TúNguyễn Bặc cũng tham gia vào lực lượng này.

Khi Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn tử trận (965), các sứ quân nổi dậy. Lưu Cơ theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp. Ông đã trực tiếp dẹp sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại[5].

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, tức là Đinh Tiên Hoàng. Nguyễn Bặc được phong làm Định quốc công, Đinh Điền được phong làm ngoại giáp, Lưu Cơ được phong làm Đô hộ phủ sĩ sư vào năm 971[6]. Theo Đại Việt sử lược thì chức vụ Đô hộ phủ sĩ sư của Lưu Cơ chính là Thái sư ở Đô hộ phủ Đại La[7] (chức quan đầu triều trông coi hình án, kiêm chức Thái sư, cai quản phủ đô hộ cũ và đóng phủ đường ở Đại La).

Vai trò này của Lưu Cơ được đánh giá là sánh ngang hàng Phó Vương, giúp Đinh Tiên Hoàng cai quản phần đất trọng yếu và nhiều tiềm năng kinh tế nhất của nước Đại Cồ Việt đương thời[5][8].

Công thần nhà Đinh

Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị sát hại. Quan Chi hậu nội nhân là Đỗ Thích bị nghi là thủ phạm hàng đầu, sợ hãi bỏ trốn rồi bị Nguyễn Bặc bắt và chém. Người con còn lại của Đinh Tiên HoàngĐinh Toàn được lập làm vua. Lê Hoàn lộng hành, nắm lấy quyền lớn trong triều.

"Tứ trụ" Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ cùng trung thần Phạm Hạp muốn giữ ngôi nhà Đinh cho ấu chúa, nhưng bị Lê Hoàn đánh thua: Đinh Điền, Phạm Hạp chết tại trận, Nguyễn Bặc bị bắt sống đem về chém tại Hoa Lư. Còn Lưu Cơ và Trịnh Tú thì bị phục kích ở Bãi Vàng. Hai ông cùng hai bộ tướng chống cự quyết liệt, giết được bốn tướng của Lê Hoàn, nhưng cuối cùng bị quân đông hơn bao vây tiêu diệt. Thế là hai bên có tám tướng chết ở trận đó. Sau, dân làng Hoa Lư xây " Bát long tự" sát phía đông Bãi Vàng để thờ giải oan cho tám người.

Chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục chỉ xác nhận việc chống Lê Hoàn của Nguyễn Bặc, Đinh ĐiềnPhạm Hạp, không nhắc tới Lưu Cơ và Trịnh Tú tham gia việc này. Nguồn tài liệu phản ánh việc Lưu Cơ tham gia chống Lê Hoàn là thần phả.

Đóng góp với kinh đô mới

Theo ý kiến khác dựa vào thần phả các di tích thành Đại La thì ông là thái sư Đô hộ phủ, cai quản toàn bộ Giao Châu, đóng đại bản doanh ở Phủ Đô hộ cũ, tức thành Đại La. Khi đó ông chừng 30 tuổi. Theo ý kiến này, Lưu Cơ không chết về tay Lê Hoàn mà phục vụ cho Lê Hoàn. Ông còn sống tới thời Lý Thái Tổ và tiếp tục phục vụ nhà Lý, với vai trò trấn thủ Đại La như trước.

Thành Đại La vốn là trung tâm cai trị của chính quyền đô hộ phương Bắc thời Bắc thuộc, được thiết kế mặt thành phía bắc là mặt chính, mở ba cửa và trên đó đều có lầu che. Hai mặt đông tây cũng có ba cửa không lầu che. Riêng mặt nam là mặt thông với khu dân cư mở tới 5 cửa trên đặt trống, loa; còn mặt chính mang tính nghi lễ hướng về phía bắc, với ý nghĩa "sự hướng bắc" của thành Đại La gắn liền với bộ máy thần phục ở Giao Châu với nhà Đường[8][9].

Theo giới chuyên môn, Lưu Cơ là người đầu tiên biến tu sửa, biến tòa thành Đại La thuộc địa hướng bắc trở thành một tòa thành hướng nam độc lập tự chủ. Vì khi đó, hoàng đế Đại Cồ ViệtHoa Lư, tức ở về phía nam tòa thành Đại La nên mọi hướng nhìn của cổng thành và dinh thự đời các Tiết độ sứ cũ phải được sửa đổi[8][9].

Tính từ thời nhà Đinh, Lưu Cơ là người đã cai quản và thành Đại La trong vòng gần 40 năm (971-1010). Ông đã tu sửa thành Đại La của An Nam đô hộ phủ nhà Đường trở nên một tòa thành Đại Cồ Việt và chuẩn bị mọi điều kiện cơ sở hạ tầng cho cuộc dời đô của Lý Thái Tổ có thể di chuyển từ Hoa Lư ra Thăng Long chỉ trong một thời gian rất ngắn[8][9].

Chiếu dời đô được ban hành vào tháng 5, tòa thành Đại La khi trở thành kinh đô Thăng Long vào tháng 7 năm 1010. Ngay khi chuyển về kinh đô Thăng Long, triều đình nhà Lý đã nhanh chóng ổn định. Tòa thành Đại La khi trở thành kinh đô Thăng Long vào tháng 7 năm 1010 đã là một kinh đô Đại Cồ Việt được chuẩn bị hoàn tất, mà công lao được ghi nhận của Lưu Cơ[5]. Ông bàn giao kinh thành Thăng Long cho Lý Thái Tổ khi gần 70 tuổi và cáo lão về hưu trí ở quê nhà, ba năm sau thì mất, thọ 73 tuổi[8][9].

Tứ trụ triều Đinh

Sách Đại Nam Quốc sử Diễn ca cũng như thơ ca dân gian thường nói đến Tứ trụ "Bặc, Điền, Cơ, Tú" tức là bốn người trụ cột của triều nhà Đinh, là Tể tướng Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Thái sư Lưu Cơ và Thượng thư Trịnh Tú. Tứ trụ là 4 vị quan thân cận, từng giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam: từ Đời Lý trở đi Đinh Điền, Nguyễn Bặc cùng Trịnh Tú, Lưu Cơ đều được truy phong phúc thần. Trường ca chữ Nôm Thiên nam ngữ lục cho rằng:

"Bốn người có nghĩa đồng niênNguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ".

Việt giám thông khảo tổng luận bình rằng: "Đinh Tiên Hoàng nhân khi nước Ngô loạn mất, bình được mười hai sứ quân, trời cho người theo, thống nhất bờ cõi, dùng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú làm người phù tá, sáng chế triều nghi, định lập quân đội, vua chính thống của nước Việt ta, thực bắt đầu từ đấy, kể về mặt dẹp giặc phá địch thì công to lắm!"

Quan hệ giữa Đinh Tiên Hoàng với "tứ trụ triều Đinh" gồm "Điền - Bặc - Cơ - Tú" là sự gắn bó đẹp đẽ, bền chặt như kim cương, không gì phả vỡ nổi, song sử sách nói tới Đinh Điền, Nguyễn Bặc nhiều hơn Lưu Cơ, Trịnh Tú. Sử sách và dư luận dân gian nói nhiều hơn tới một bộ ba "Đinh Tiên Hoàng, Đinh Điền, Nguyễn Bặc"[10] vốn cùng năm sinh, năm mất, cùng quê, cùng chí hướng.

Đánh giá về cái chết thê thảm của ba đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp liền sau cái chết của Đinh Tiên Hoàng, sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: "việc khởi binh ấy không phải là làm loạn mà là một lòng phò tá họ Đinh, đánh Hoàn không được mà chết đấy là đúng chỗ"… Đó là "bề tôi trung nghĩa, làm không xong việc mà chết ấy là bề tôi tử tiết". Thống nhất với chính sử, giới Nho sĩ và nhân dân cũng nhiệt liệt ca ngợi. Gần 200 đền đài miếu mạo ở vùng Hà Nam Ninh coi Đinh Điền, Nguyễn Bặc như một tấm gương trung liệt treo cao: "Trung quán nhật nguyệt" (Lòng trung xuyên suốt mặt trời).

Hiện nay, các di tích đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đền Tứ Trụ (Tràng An), quảng trường Đinh Tiên Hoàng Đế đều thờ tứ trụ triều đình nhà Đinh.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lưu Cơ (nhà Đinh) http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvs... http://tapchivanngheninhbinh.org/lich-su-van-hoa/d... http://dulich.dantri.com.vn/du-lich/le-tuong-niem-... http://www.hanoimoi.com.vn/print/304370/print.htm http://kimdong.hungyen.gov.vn/portal/pages/print.a... http://thanglonghanoi.gov.vn/channel/3/2010/10/734... http://hannom.vass.gov.vn/noidung/thongbao/Pages/b... http://luutoc.vn/vi/?go=detail/5/1/2014/LBFeiT/New... http://phapluatxahoi.vn/20101007110855648p1004c102... http://thethaovanhoa.vn/133N2010010611115996T0/ai-...